Nguồn tham khảo: Tổng cục thống kê của Chính Phủ – https://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=621&ItemID=15853

Kinh tế – xã hội nước ta 6 tháng đầu năm 2016 diễn ra trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế toàn cầu tăng nhưng với tốc độ chậm lại. Kinh tế Trung Quốc tiếp tục suy giảm, các nền kinh tế phát triển như Mỹ, Nhật Bản và EU tăng trưởng yếu. Giá cả hàng hóa thế giới vẫn ở mức thấp, thương mại và đầu tư toàn cầu kém sôi động, dòng vốn lưu chuyển đang giảm, cùng với biến động khó lường của thị trường tài chính, tiền tệ thế giới đã tác động đến kinh tế nước ta, nhất là hoạt động xuất khẩu và thu ngân sách Nhà nước.

Trong nước, bên cạnh những thuận lợi từ dấu hiệu khởi sắc trong năm 2015, kinh tế nước ta đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức bởi diễn biến phức tạp của thời tiết, biến đổi khí hậu và môi trường biển. Rét đậm, rét hại ở các tỉnh phía Bắc, tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn nghiêm trọng tại Tây Nguyên, Nam Trung Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long và hiện tượng cá chết hàng loạt ở các tỉnh miền Trung đã ảnh hưởng lớn tới sản xuất và đời sống nhân dân.

Trước tình hình đó, Chính phủ đã lãnh đạo, chỉ đạo các ngành, địa phương tập trung thực hiện đồng bộ, có hiệu quả Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 07 tháng 01 năm 2016 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2016. Đồng thời tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, chủ động và triển khai hiệu quả nhiều biện pháp ứng phó với tác động của biến đổi khí hậu nhằm hạn chế thấp nhất thiệt hại, ổn định đời sống và phát triển sản xuất. Kết quả đạt được của các ngành, lĩnh vực trong 6 tháng đầu năm như sau:

TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước

Tổng sản phẩm trong nước (GDP) 6 tháng đầu năm 2016 ước tính tăng 5,52% so với cùng kỳ năm trước, trong đó quý I tăng 5,48%; quý II tăng 5,55%. Trong mức tăng 5,52% của toàn nền kinh tế, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7,12% (quý I tăng 7,16%; quý II tăng 7,09%), đóng góp 2,41 điểm phần trăm vào tăng trưởng chung; khu vực dịch vụ tăng 6,35% (quý I tăng 5,98%; quý II tăng 6,68%), đóng góp 2,38 điểm phần trăm. Riêng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm 0,18% (quý I giảm 1,31%; quý II tăng 0,36%), làm giảm 0,03 điểm phần trăm mức tăng trưởng chung. Tăng trưởng 6 tháng đầu năm nay tuy cao hơn tốc độ tăng của cùng kỳ các năm 2012-2014[1] nhưng có dấu hiệu chững lại so với tốc độ tăng 6,32% trong 6 tháng đầu năm 2015.

Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản 6 tháng đầu năm giảm so với cùng kỳ năm trước chủ yếu do ngành nông nghiệp (chiếm trên 75% giá trị tăng thêm khu vực I) giảm 0,78%. Nguyên nhân do sản lượng lúa đông xuân năm nay chỉ đạt 19,4 triệu tấn, giảm 1,3 triệu tấn (giảm 6,4%) so với vụ đông xuân 2015. Giá trị tăng thêm ngành lâm nghiệp tăng 5,75%; ngành thủy sản tăng 1,25%.

Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp tăng 6,82%, thấp hơn nhiều mức tăng 9,66% của cùng kỳ năm trước, chủ yếu do ngành khai khoáng giảm 2,20% (6 tháng đầu năm 2015 tăng 8,48%). Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,1%, tương đương với mức tăng của cùng kỳ năm 2015. Ngành sản xuất và phân phối điện và ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng trưởng khá tốt với mức tăng tương ứng là 11,7% và 8,10%. Ngành xây dựng 6 tháng đầu năm tăng 8,8%, mức tăng cao nhất kể từ năm 2010 trở lại đây[2].

Khu vực dịch vụ 6 tháng đầu năm nay đạt mức tăng trưởng cao nhất kể từ năm 2012 tới nay[3]. Một số ngành tăng khá so với cùng kỳ năm trước: Bán buôn, bán lẻ tăng 8,1%; hoạt động tài chính, ngân hàng, bảo hiểm tăng 6,1%; thông tin và truyền thông tăng 8,76%; y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 7,30%; nghệ thuật, vui chơi và giải trí tăng 7,20%; giáo dục và đào tạo tăng 7,15%. Hoạt động kinh doanh bất động sản đạt mức tăng 3,77%, là mức cao nhất kể từ năm 2011 đến nay[4].

Về cơ cấu kinh tế 6 tháng đầu năm nay, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 15,74%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 32,94%; khu vực dịch vụ chiếm 41,01% (thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 10,31%). Cơ cấu tương ứng của cùng kỳ năm 2015 là: 16,70%; 33,52%; 39,57% (thuế là 10,21%).

Xét về góc độ sử dụng GDP 6 tháng đầu năm, tiêu dùng cuối cùng tăng 6,98% so với cùng kỳ năm 2015, đóng góp 5,09 điểm phần trăm; tích lũy tài sản tăng 10%, đóng góp 2,65 điểm phần trăm; chênh lệch xuất, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ làm giảm 2,22 điểm phần trăm.

Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước

6 tháng các năm 2014, 2015 và 2016

           Tốc độ tăng so với

cùng kỳ năm trước (%)

Đóng góp của các khu vực vào tăng trưởng 6 tháng
đầu năm 2016
(Điểm phần trăm)
6 tháng     năm 2014 6 tháng     năm 2015 6 tháng     năm 2016
Tổng số 5,22 6,32 5,52 5,52
Nông, lâm nghiệp và thủy sản 2,90 2,22 -0.18 -0.03
Công nghiệp và xây dựng 5,12 9,36 7.12 2.41
Dịch vụ 5,82 5,86 6.35 2.38
Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sp 7,19 5,50 6.60 0.76

 

Tổng sản phẩm trong nước 6 tháng đầu năm 2016

 

     Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản 6 tháng đầu năm theo giá so sánh 2010 ước tính đạt 397,4 nghìn tỷ đồng, giảm 0,1% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Nông nghiệp đạt 297,2 nghìn tỷ đồng, giảm 0,7%; lâm nghiệp đạt 13,3 nghìn tỷ đồng, tăng 5,8%; thủy sản đạt 86,9 nghìn tỷ đồng, tăng 1,3%.

Nông nghiệp

Diện tích gieo cấy lúa đông xuân cả nước năm nay ước tính đạt 3081,5 nghìn ha, giảm 31,3 nghìn ha so với vụ đông xuân năm trước, trong đó các địa phương phía Bắc đạt 1154,9 nghìn ha, giảm 7,4 nghìn ha; các địa phương phía Nam đạt 1926,6 nghìn ha, giảm 23,9 nghìn ha. Theo báo cáo sơ bộ, năng suất lúa đông xuân cả nước năm nay ước tính đạt 62,9 tạ/ha, giảm 3,6 tạ/ha so với vụ đông xuân năm 2015; sản lượng đạt 19,4 triệu tấn, giảm 1,3 triệu tấn. Sản xuất lúa vụ đông xuân năm nay giảm so với vụ đông xuân trước cả về diện tích, năng suất và sản lượng chủ yếu do ảnh hưởng của thời tiết rét buốt, băng giá tại các tỉnh phía Bắc và tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn tại các tỉnh phía Nam, đặc biệt là vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Tính đến ngày 15/6, các địa phương phía Bắc thu hoạch được 859,7 nghìn ha lúa đông xuân, chiếm 74% diện tích gieo cấy và bằng 82,2% cùng kỳ năm trước. Theo đánh giá của các địa phương, năng suất cả vụ ước tính đạt 62,6 tạ/ha, tăng 0,5 tạ/ha so với vụ đông xuân trước; sản lượng đạt 7,2 triệu tấn, tăng 0,2%. Các địa phương phía Nam đã thu hoạch xong lúa đông xuân, năng suất ước tính đạt 63 tạ/ha, giảm 6,1 tạ/ha so với vụ đông xuân trước; sản lượng đạt 12,2 triệu tấn, giảm 1,3 triệu tấn (riêng vùng trọng điểm lúa Đồng bằng sông Cửu Long đạt gần 10 triệu tấn, giảm 1,1 triệu tấn).

Cùng với việc thu hoạch vụ đông xuân, tính đến trung tuần tháng Sáu, các địa phương trên cả nước đã xuống giống được 1816,5 nghìn ha lúa hè thu, bằng 98,1% cùng kỳ năm trước, trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long đạt 1521,5 nghìn ha, bằng 102,9%. Đến nay đã có 314,6 nghìn ha lúa hè thu sớm tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long cho thu hoạch, tăng 42,9% so với cùng kỳ năm 2015.

Do ảnh hưởng của thời tiết không thuận nên diện tích hầu hết cây hàng năm khác đạt thấp. Tính đến giữa tháng Sáu, các địa phương trên cả nước đã gieo trồng được 711,8 nghìn ha ngô, bằng 92,4% cùng kỳ năm trước; 88,9 nghìn ha khoai lang, bằng 94,1%; 43,9 nghìn ha đậu tương, bằng 76,2%;157,2 nghìn ha lạc, bằng 100,7%; 673 nghìn ha rau đậu, bằng 102,5%.

Theo báo cáo từ các địa phương, sản lượng một số cây công nghiệp lâu năm tăng nhẹ so với cùng kỳ năm trước do diện tích cho sản phẩm tăng: Sản lượng chè đạt 454,7 nghìn tấn, tăng 0,4% (diện tích tăng 0,6%); cao su đạt 320,3 nghìn tấn, tăng 1,7% (diện tích tăng 0,8%); hồ tiêu đạt 153,2 nghìn tấn, tăng 5,6% (diện tích tăng 17,9%). Riêng sản lượng điều ước tính đạt 303,5 nghìn tấn, giảm 9,9% so với cùng kỳ năm trước do diện tích giảm 1,4% và bị ảnh hưởng của khô hạn và sâu bệnh.

Chăn nuôi trong 6 tháng đầu năm gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của rét đậm, rét hại tại các tỉnh phía Bắc, hạn hán ở Tây Nguyên và Nam Trung Bộ. Đàn trâu cả nước ước tính đến tháng Sáu có 2,52 triệu con, giảm 1,1% so với cùng kỳ năm trước; đàn bò có 5,34 triệu con, tăng 1,6%, trong đó đàn bò sữa có 279 nghìn con, tăng 10%; đàn lợn có 28,3 triệu con, tăng 3,9%; đàn gia cầm có 341,5 triệu con, tăng 4,3%. Sản lượng thịt trâu hơi 6 tháng ước tính đạt 49,7 nghìn tấn, giảm 0,5% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng thịt bò hơi ước tính đạt 183,4 nghìn tấn, tăng 2%; sản lượng thịt lợn hơi đạt 2,15 triệu tấn, tăng 4,7%; thịt gia cầm đạt 541,3 nghìn tấn, tăng 4,9%; sản lượng sữa tươi ước tính đạt 381,4 nghìn tấn, tăng 7,4%; trứng gia cầm đạt 5255 triệu quả, tăng 5,3%.

Dịch bệnh tuy còn xảy ra rải rác ở một số địa phương trong những tháng đầu năm nhưng với quy mô nhỏ. Tính đến ngày 23/6/2016, cả nước không còn dịch cúm gia cầm và dịch lợn tai xanh; dịch lở mồm long móng chưa qua 21 ngày còn ở Tiền Giang.

Lâm nghiệp

Trong 6 tháng đầu năm, diện tích rừng trồng mới tập trung ước tính đạt 86,9 nghìn ha, tăng 2,2% so với cùng kỳ năm trước; diện tích rừng trồng được chăm sóc đạt 351 nghìn ha, giảm 2,5%; diện tích rừng được giao khoán bảo vệ đạt 4710 nghìn ha, giảm 2%; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 110 triệu cây, giảm 0,9%; diện tích rừng khoanh nuôi tái sinh đạt 605 nghìn ha, tương đương cùng kỳ năm 2015.

Khai thác lâm sản tại các địa phương tăng khá. Sản lượng gỗ khai thác 6 tháng đầu năm đạt 3844 nghìn m3, tăng 10,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chủ yếu là gỗ rừng trồng, chiếm 99,6%; sản lượng củi khai thác đạt 15 triệu ste, tăng 0,7%. Một số địa phương có sản lượng gỗ khai thác tăng cao: Tuyên Quang đạt 351 nghìn m3, tăng 86,7%; Thanh Hóa đạt 213 nghìn m3, tăng 19,3%; Thừa Thiên – Huế đạt 190 nghìn m3, tăng 27,6%; Quảng Trị đạt 146 nghìn m3, tăng 20%. Sản lượng gỗ khai thác tăng chủ yếu do chất lượng gỗ tốt, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu.

Công tác bảo vệ và phòng chống cháy rừng được các cấp, các ngành quan tâm thực hiện, nhưng do thời tiết hanh khô, nắng nóng kéo dài nên vẫn xảy ra tình trạng cháy rừng tại một số địa phương, nhất là ở một số tỉnh Trung du và miền núi phía Bắc. Trong 6 tháng đầu năm, cả nước có 2599 ha rừng bị thiệt hại, gấp 3 lần so với cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích rừng bị cháy là 1955 ha, gấp 3,5 lần; diện tích rừng bị chặt phá là 644 ha, gấp 2,2 lần. Một số địa phương có diện tích rừng bị cháy lớn: Điện Biên 969 ha; Sơn La 452 ha; Yên Bái 194 ha; Hà Giang 156 ha. Một số địa phương có diện tích rừng bị chặt phá nhiều: Bình Định 180 ha; Điện Biên 175 ha; Quảng Nam 56 ha.

Thủy sản

Sản lượng thủy sản 6 tháng đầu năm ước tính đạt 3131,3 nghìn tấn, tăng 1,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 2309,4 nghìn tấn, tăng 2,2%; tôm đạt 306 nghìn tấn, giảm 2,5%. Nuôi trồng thủy sản bị ảnh hưởng do ô nhiễm môi trường nước và hạn mặn, nhất là tại vùng nuôi trồng thủy sản trọng điểm Đồng bằng sông Cửu Long. Diện tích nuôi trồng thủy sản 6 tháng ước tính đạt 893 nghìn ha, giảm 3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích nuôi cá đạt 256,2 nghìn ha, giảm 2,2%; diện tích nuôi tôm đạt 518,2 nghìn ha, giảm 3,5%. Sản lượng thủy sản nuôi trồng 6 tháng ước tính đạt 1586,4 nghìn tấn, tăng 0,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 1191,4 nghìn tấn, tăng 1,1%; tôm đạt 226,6 nghìn tấn, giảm 4%.

Nuôi cá tra tiếp tục gặp khó khăn trong khâu tiêu thụ sản phẩm, giá cá tra không ổn định và ở mức thấp, trong khi giá thức ăn chăn nuôi tăng. Sản lượng cá tra 6 tháng đầu năm ước tính đạt 519,6 nghìn tấn, giảm 3% so cùng kỳ năm trước, trong đó hầu hết các địa phương nuôi cá tra trọng điểm có sản lượng giảm: An Giang đạt 123,1 nghìn tấn, giảm 5,5%; Vĩnh Long đạt 43,3 nghìn tấn, giảm 8,2%; Cần Thơ đạt 58,5 nghìn tấn, giảm 1,3%.

Nuôi tôm nước lợ bị ảnh hưởng của tình trạng xâm nhập mặn sâu, môi trường nước thay đổi, tôm nuôi chậm lớn và dễ mắc bệnh, sản lượng thu hoạch không cao. Sản lượng nuôi tôm sú 6 tháng đầu năm ước tính đạt 100,1 nghìn tấn, tăng 0,1% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng tôm thẻ chân trắng đạt 97,5 nghìn tấn, giảm 10%.

Thời tiết những tháng đầu năm tương đối thuận lợi cho hoạt động khai thác hải sản. Các địa phương có chính sách hỗ trợ ngư dân về dầu và vay vốn đóng mới tàu công suất lớn chuyên đánh bắt xa bờ đã khuyến khích bà con ngư dân tích cực ra khơi bám biển. Sản lượng khai thác thủy sản 6 tháng đầu năm ước tính đạt 1544,9 nghìn tấn, tăng 3,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 1118 nghìn tấn, tăng 3,3%; tôm đạt 79,4 nghìn tấn, tăng 1,8%. Khai thác biển ước tính đạt 1459,5 nghìn tấn, tăng 3,4%, trong đó sản lượng cá ngừ đại dương đạt 13 nghìn tấn, tương đương cùng kỳ năm 2015.

Tuy nhiên, vào cuối tháng Tư tại một số địa phương thuộc vùng biển Bắc Trung Bộ (Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên – Huế) xảy ra hiện tượng cá chết hàng loạt trôi dạt vào bờ đã ảnh hưởng tới tâm lý người tiêu dùng, hải sản khai thác khó tiêu thụ, nhiều ngư dân phải dừng đánh bắt ở vùng biển ven bờ, sản lượng thủy sản khai thác ở các tỉnh trên giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước[5].

 

Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 6 tháng năm 2016 theo giá so sánh 2010
Sản xuất vụ đông xuân năm 2016
Diện tích, năng suất, sản lượng lúa đông xuânnăm 2016 phân theo địa phương
Sản lượng thuỷ sản 6 tháng năm 2016

 

Sản xuất công nghiệp

Chỉ số sản xuất toànngành công nghiệp tháng Sáu ước tính tăng 7,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành khai khoáng giảm 6,1%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 11,3%; sản xuất và phân phối điện tăng 10,8%; cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,6%.

Tính chung 6 tháng đầu năm nay, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 7,5% so với cùng kỳ năm trước (quý I tăng 7,6%; quý II tăng 7,5%), thấp hơn nhiều mức tăng 9,7% của cùng kỳ năm 2015[6]. Trong các ngành công nghiệp, ngành chế biến, chế tạo tăng 10,1%, đóng góp 7,1 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 11,7%, đóng góp 0,8 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 8,1%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm; riêng ngành khai khoáng giảm 2,2% (chủ yếu do khai thác dầu thô giảm 6,1%), làm giảm 0,5 điểm phần trăm mức tăng chung.

Trong các ngành công nghiệp cấp II, một số ngành có chỉ số sản xuất
6 tháng tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất kim loại tăng 19,7%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy tính và quang học tăng 17,9%; sản xuất xe có động cơ tăng 15,3%; dệt tăng 15%; sản xuất giường, tủ, bàn ghế tăng 14,6%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 14,1%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 12,9%; sản xuất giấy và các sản phẩm từ giấy tăng 12,3%. Một số ngành có mức tăng thấp hoặc giảm: Sản xuất trang phục tăng 8,6%; sản xuất đồ uống tăng 7,9%; sản xuất chế biến thực phẩm tăng 7,6%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 7%; sản xuất thiết bị điện tăng 3,1%; khai thác than tăng 3%; sản xuất thuốc lá tăng 2,5%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 2,2%; khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 3,7%.

Trong 6 tháng đầu năm nay, một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Ti vi tăng 69,9%; ô tô tăng 27,2%; thép cán tăng 22,7%; thép thanh, thép góc tăng 22,1%; thức ăn cho gia súc tăng 17,7%; xi măng tăng 17,7%; sắt, thép thô tăng 15,1%. Một số sản phẩm tăng khá: Bột ngọt tăng 12%; điện sản xuất tăng 11,5%; sữa bột tăng 11,4%; khí hóa lỏng (LPG) tăng 11,3%; thủy hải sản chế biến tăng 9,2%. Một số sản phẩm tăng thấp hoặc giảm so với cùng kỳ năm trước: Quần áo mặc thường tăng 5,3%; than đá tăng 3%; thuốc lá điếu tăng 2,5%; xe máy giảm 0,5%; phân u rê giảm 4,2%; giày, dép da giảm 4,5%; đường kính giảm 5%; dầu thô khai thác giảm 6,1%; điện thoại di động giảm 7,2%; phân hỗn hợp (NPK) giảm 9,6%.

Chỉ số sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm nay so với cùng kỳ năm trước của một số địa phương có quy mô công nghiệp lớn như sau: Thái Nguyên tăng 40,3%; Quảng Nam tăng 35,8%; Cần Thơ tăng 24,6%; Hải Phòng tăng 16,9%; Bắc Ninh tăng 13,5%; Đà Nẵng tăng 11,1%; Bình Dương tăng 8,4%; Hải Dương tăng 8,2%; Đồng Nai tăng 7,9%; Hà Nội tăng 7,4%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 6,9%; Vĩnh Phúc tăng 6,1%; Bà Rịa-Vũng Tàu giảm 2,1%.

Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 5/2016 tăng 5,2% so với tháng trước và tăng 7,8% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 5 tháng đầu năm, chỉ số tiêu thụ ngành chế biến, chế tạo tăng 8,8% so với cùng kỳ năm 2015. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và quang học tăng 15,2%; sản xuất xe có động cơ tăng 14,2%; sản xuất kim loại tăng 13,7%; sản xuất giường, tủ, bàn ghế tăng 13,1%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 12,5%; sản xuất đồ uống tăng 10,4%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng thấp hoặc giảm: Dệt tăng 4,3%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 3,6%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 2,5%; sản xuất hóa chất và các sản phẩm từ hóa chất giảm 0,4%; sản xuất thuốc lá giảm 0,8%; sản xuất phương tiện vận tải khác giảm 2,1%.

Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại thời điểm 01/6/2016 tăng 9% so với cùng thời điểm năm 2015 (thấp hơn mức tăng 11,8% của cùng thời điểm năm trước), trong đó một số ngành có chỉ số tồn kho tăng thấp hơn mức tăng chung hoặc giảm: Sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 7,9%; sản xuất da, các sản phẩm có liên quan giảm 1,8%; sản xuất đồ uống giảm 9%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) giảm 15,5%; sản xuất thiết bị điện giảm 23%; sản xuất thuốc lá giảm 34,5%; sản xuất phương tiện vận tải khác giảm 53%. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao so với mức tăng chung: Sản xuất xe có động cơ tăng 115,3%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và quang học tăng 69,6%; sản xuất giấy và các sản phẩm từ giấy tăng 33,4%; sản xuất các sản phẩm từ cao su và plastic tăng 26,1%; sản xuất trang phục tăng 17,3%; sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 16,3%.

Tỷ lệ tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo bình quân 5 tháng đầu năm 2016 là 71,5%, trong đó một số ngành có tỷ lệ tồn kho cao: Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn 132,9%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất 118%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu 113,7%.

Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/6/2016 tăng 5,9% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước giảm 0,4%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng 3,6%; doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 8,9%. Tại thời điểm trên, số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp ngành khai khoáng giảm 3,6% so với cùng thời điểm năm trước; ngành chế biến, chế tạo tăng 6,7%; sản xuất và phân phối điện giảm 0,8%; cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 2,9%.

Lao động của các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/6/2016 so với cùng thời điểm năm trước của một số địa phương như sau: Thái Nguyên tăng 35,3%; Hải Phòng tăng 9,9%; Bà Rịa-Vũng Tàu tăng 8,6%; Đồng Nai tăng 8,3%; Bình Dương tăng 5,7%; Đà Nẵng tăng 4,5%; Quảng Nam tăng 4%; Vĩnh Phúc tăng 2,4%; Hải Dương tăng 1,5%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 1,2%; Hà Nội tăng 1,2%; Cần Thơ giảm 0,2%; Quảng Ngãi giảm 7,3%.

 

Chỉ số sản xuất công nghiệp
Một số sản phẩm chủ yếu của ngành công nghiệp
Chỉ số tiêu thụ và tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp

 

Hoạt động của doanh nghiệp

Tình hình đăng ký doanh nghiệp[7]

Trong tháng Sáu, cả nước có 9761 doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký là 78,3 nghìn tỷ đồng, giảm 2,6% về số doanh nghiệp và giảm 22,6% về số vốn đăng ký so với tháng trước; vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp đạt 8 tỷ đồng, giảm 20,6%. Tổng số lao động đăng ký của các doanh nghiệp thành lập mới là 113,2 nghìn người, tăng 8,1%. So với cùng kỳ năm trước, số doanh nghiệp thành lập mới trong tháng Sáu tăng 4,4%; số vốn đăng ký tăng 22,2%.

Trong tháng, cả nước có 1903 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 13,9% so với tháng trước; có 5365 doanh nghiệp gặp khó khăn phải tạm ngừng hoạt động (bao gồm: 1621 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động có đăng ký và 3744 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động chờ đóng mã số doanh nghiệp hoặc không đăng ký), tăng 27,6%; có 864 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, chấm dứt hoạt động, giảm 2,3%.

Tính chung 6 tháng đầu năm nay, cả nước có 54501 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 427,8 nghìn tỷ đồng, tăng 20% về số doanh nghiệp và tăng 51,5% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2015[8]; số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp đạt 7,8 tỷ đồng, tăng 26,2%. Bên cạnh đó còn có 16125 lượt doanh nghiệp thay đổi tăng vốn với tổng vốn tăng thêm 774,7 nghìn tỷ đồng, nâng tổng số vốn đăng ký và bổ sung thêm vào nền kinh tế trong 6 tháng đầu năm 2016 đạt 1202,5 nghìn tỷ đồng. Số lượng doanh nghiệp và số vốn đăng ký 6 tháng đầu năm tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước cho thấy tác động tích cực của Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư và hiệu quả các giải pháp chỉ đạo, điều hành của Chính phủ đã thúc đẩy mạnh mẽ tinh thần khởi nghiệp và tạo niềm tin cho cộng đồng doanh nghiệp và các nhà đầu tư.

Số doanh nghiệp ngừng hoạt động quay trở lại hoạt động trong 6 tháng đầu năm nay là 14902 doanh nghiệp, tăng 75,2% so với cùng kỳ năm trước và là mức tăng cao nhất trong nhiều năm qua (6 tháng đầu năm 2015 tăng 2,2% so với cùng kỳ năm 2014). Số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, chấm dứt hoạt động sản xuất, kinh doanh trong 6 tháng là 5507 doanh nghiệp, tăng 17% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2015 giảm 0,9% so với năm 2014), trong đó có 5129 doanh nghiệp có quy mô vốn đăng ký dưới 10 tỷ đồng, chiếm 93,1% và tăng 16,9%. Nếu phân theo loại hình doanh nghiệp, trong tổng số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, chấm dứt hoạt động có 2210 công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên (chiếm 40,1%); 1656 công ty trách nhiệm hữu hạn 2 thành viên (chiếm 30,1%); 913 doanh nghiệp tư nhân (chiếm 16,6%); 727 công ty cổ phần (chiếm 13,2%) và 01 công ty hợp danh.

Số doanh nghiệp gặp khó khăn buộc phải tạm ngừng hoạt động trong 6 tháng đầu năm nay là 31119 doanh nghiệp, tăng 15,0% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm 12203 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động có thời hạn, tăng 37,1% và 18916 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ đóng mã số doanh nghiệp hoặc không đăng ký, tăng 4,2%. Trong tổng số doanh nghiệp gặp khó khăn buộc phải tạm ngừng hoạt động có đăng ký, có 4518 công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên (chiếm 37,1%); 4301 công ty trách nhiệm hữu hạn 2 thành viên (chiếm 35,2%); 2129 công ty cổ phần (chiếm 17,4%) và 1255 doanh nghiệp tư nhân (chiếm 10,3%). Đối với doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động chờ đóng mã số thuế hoặc không đăng ký, có 7716 công ty TNHH 1 thành viên (chiếm 40,8%); 5995 công ty TNHH 2 thành viên (chiếm 31,7%); 3421 công ty cổ phần (chiếm 18,1%) và 1784 doanh nghiệp tư nhân (chiếm 9,4%).

Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp

Kết quả điều tra về xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý II/2016 cho thấy: Có 41,8% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh quý II năm nay khả quan hơn quý trước; 18,9% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn và 39,3% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định. Dự kiến quý III so với quý II năm nay, có 47,7% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên; 13,2% số doanh nghiệp dự báo khó khăn hơn và 39,1% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định.

Về khối lượng sản xuất, có 45,3% số doanh nghiệp đánh giá khối lượng sản xuất của doanh nghiệp quý II năm nay tăng so với quý trước; 18,6% số doanh nghiệp đánh giá khối lượng sản xuất giảm và 36,1% số doanh nghiệp cho rằng ổn định. Về xu hướng quý III so với quý II, có 49,5% doanh nghiệp dự báo khối lượng sản xuất tăng lên; 12,2% số doanh nghiệp dự báo giảm và 38,3% số doanh nghiệp dự báo ổn định.

Về đơn đặt hàng, có 39,3% số doanh nghiệp có số đơn đặt hàng quý II năm nay cao hơn quý trước; 18,2% số doanh nghiệp có số đơn đặt hàng giảm và 42,5% số doanh nghiệp có số đơn đặt hàng ổn định. Xu hướng quý III so với quý II tiếp tục khả quan với 44,1% số doanh nghiệp dự kiến có đơn hàng cao hơn; 12,0% số doanh nghiệp dự kiến đơn hàng giảm và 43,9% số doanh nghiệp dự kiến có đơn hàng ổn định.

Về đơn đặt hàng xuất khẩu, quý II năm nay so với quý trước, có 30,0% số doanh nghiệp khẳng định số đơn hàng xuất khẩu cao hơn; 19,0% số doanh nghiệp có đơn hàng xuất khẩu giảm và 51,0% số doanh nghiệp có đơn hàng xuất khẩu ổn định. Xu hướng quý III so với quý II, có 38,2% số doanh nghiệp dự kiến tăng đơn hàng xuất khẩu; 12,1% số doanh nghiệp dự kiến giảm và 49,7% số doanh nghiệp dự kiến ổn định.

Về chi phí sản xuất, có 23,1% số doanh nghiệp khẳng định chi phí sản xuất trên một đơn vị sản phẩm quý II năm nay tăng so với quý trước; 9,7% số doanh nghiệp cho biết chi phí giảm và 67,2% số doanh nghiệp cho rằng chi phí ổn định. Xu hướng trong quý III/2016, có 17,0% số doanh nghiệp dự kiến chi phí sản xuất sẽ tăng so với quý II; 10,5% doanh nghiệp cho rằng chi phí giảm và 72,5% số doanh nghiệp dự kiến chi phí sản xuất ổn định.

Về giá bán sản phẩm, quý II năm nay so với quý trước, có 16,0% số doanh nghiệp cho biết có giá bán sản phẩm tăng; 10,9% số doanh nghiệp có giá bán thấp hơn và 73,1% số doanh nghiệp có giá bán sản phẩm ổn định. Dự kiến giá bán sản phẩm quý III so với quý II, có 15,1% số doanh nghiệp dự báo giá bán sản phẩm sẽ cao hơn; 9,2% số doanh nghiệp dự báo giá bán sẽ thấp hơn và 75,7% số doanh nghiệp dự báo giá bán sản phẩm sẽ ổn định.

Về tình hình tồn kho sản phẩm, có 19,1% số doanh nghiệp có lượng tồn kho quý II năm nay tăng so với quý trước; 31,8% số doanh nghiệp có lượng tồn kho giảm và 49,1% số doanh nghiệp giữ ổn định. Xu hướng quý III so với quý II, có 14,7% số doanh nghiệp dự báo lượng hàng tồn kho sẽ tăng; 29,7% số doanh nghiệp cho rằng lượng hàng tồn kho sẽ giảm và 55,6% số doanh nghiệp dự báo sẽ giữ ổn định.

Về tồn kho nguyên vật liệu, quý II/2016 so với quý trước, có 17,1% số doanh nghiệp cho biết lượng tồn kho nguyên vật liệu tăng; 30,2% số doanh nghiệp cho là giảm và 52,7% số doanh nghiệp trả lời giữ nguyên. Dự kiến quý III so với quý II, có 14,2% số doanh nghiệp dự báo lượng tồn kho nguyên vật liệu tăng; 28,1% doanh nghiệp dự báo lượng tồn kho giảm và 57,7% số doanh nghiệp cho rằng sẽ không có biến động về tồn kho nguyên vật liệu.

Về sử dụng lao động, quý II năm nay so với quý trước, có 18,3% số doanh nghiệp khẳng định quy mô lao động tăng; 12,8% số doanh nghiệp khẳng định giảm và 68,9% số doanh nghiệp cho biết giữ ổn định. Dự kiến quý III so với quý II, có 18,2% số doanh nghiệp dự báo quy mô lao động tăng; 8,0% số doanh nghiệp dự báo giảm và 73,8% số doanh nghiệp ổn định quy mô lao động.

Xu hướng chung trong 6 tháng cuối năm 2016, phần lớn doanh nghiệp dự báo tình hình sản xuất kinh doanh lạc quan hơn 6 tháng đầu năm, trong đó 55,4% số doanh nghiệp dự báo khối lượng sản xuất tăng; 9,3% số doanh nghiệp cho rằng khối lượng sản xuất giảm và 35,3% số doanh nghiệp vẫn ổn định. Về số đơn đặt hàng, có 48,5% số doanh nghiệp dự kiến số đơn đặt hàng tăng; 9,5% số doanh nghiệp dự kiến giảm và 42,0% số doanh nghiệp cho rằng sẽ ổn định; số đơn đặt hàng xuất khẩu dự báo tương ứng là 42,1%; 9,4% và 48,5%. Về quy mô lao động, có 26,5% số doanh nghiệp dự kiến sẽ tăng quy mô lao động; 7,0% số doanh nghiệp cho rằng sẽ giảm và 66,5% số doanh nghiệp không có biến động quy mô lao động.

Hoạt động dịch vụ

Bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng

Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Sáu ước tính đạt 295,8 nghìn tỷ đồng,tăng 3% so với tháng trước và tăng 11% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 222,6 nghìn tỷ đồng, tăng 1,8% và tăng 11,2%; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 35,9 nghìn tỷ đồng, tăng 10,9% và tăng 9,8%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 3,3 nghìn tỷ đồng, tăng 24,8% và tăng 18,5%; doanh thu dịch vụ khác đạt 34 nghìn tỷ đồng, tăng 1,4% và tăng 10,8%.

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 6 tháng đầu năm nay ước tính đạt 1724nghìn tỷ đồng, tăng 9,5% so với cùng kỳ năm trước. Nếu loại trừ yếu tố giá tăng 7,5%, thấp hơn mức tăng 8,8% của cùng kỳ năm 2015.

Xét theo ngành hoạt động, doanh thu bán lẻ hàng hóa 6 tháng đầu năm ước tính đạt 1314,3  nghìn tỷ đồng, chiếm 76,2% tổng mức và tăng 9,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó một số tỉnh, thành phố có doanh thu tăng khá: Bình Dương tăng 20,1%; Nam Định tăng 17,5%; Thanh Hóa tăng 14,9%; Khánh Hòa tăng 14,9%; Quảng Nam tăng 14,7%; An Giang tăng 14,2%; Bắc Giang tăng 14,1%; Hải Phòng tăng 13,2%. Phân theo ngành hàng: Lương thực, thực phẩm tăng 13,1%; may mặc tăng 12,2%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 10%; phương tiện đi lại tăng 9,1%; riêng vật phẩm văn hoá, giáo dục chỉ tăng 0,8%.

Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống 6 tháng ước tính đạt 195,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 11,3% tổng mức và tăng 7,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu của Đà Nẵng tăng 11,6%; Hà Nội tăng 10,5%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 9,7%; Khánh Hoà tăng 7,6%; Bình Dương tăng 6,5%.

Doanh thu du lịch lữ hành 6 tháng năm nay ước tính đạt 15 nghìn tỷ đồng, chiếm 0,9% tổng mức và tăng 9,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu du lịch lữ hành của Hà Nội tăng 11,8%; Hà Nam tăng 10,9%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 8,7%; Vĩnh Long tăng 8,5%; Thừa Thiên-Huế tăng 6,2%.

Doanh thu dịch vụ khác 6 tháng ước tính đạt 199,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 11,6% tổng mức và tăng 9,2% so với cùng kỳ năm 2015. Một số địa phương có doanh thu tăng khá: Thanh Hóa tăng 19,6%; Quảng Ninh tăng 14,6%; Bình Định tăng 11,6%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 11,2%; Bắc Giang tăng 10,5%; Hà Nội tăng 5,7%.

 

Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

 

Vận tải hành khách và hàng hóa

Vận tải hành khách 6 tháng đầu năm ước tính đạt 1805,2 triệu lượt khách, tăng 9,2% và 84,2 tỷ lượt khách.km, tăng 8,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó vận tải hành khách đường bộ đạt 1695,2 triệu lượt khách, tăng 9,4% và 56,7 tỷ lượt khách.km, tăng 7,8%; đường hàng không đạt 19,7 triệu lượt khách, tăng 26,3% và 24,1 tỷ lượt khách.km, tăng 14,1%; đường sắt đạt 5,1 triệu lượt khách, giảm 12,2% và 1,9 tỷ lượt khách.km, giảm 15,3%; đường biển đạt 3 triệu lượt khách, tăng 3,2% và 153,2 triệu lượt khách.km, tăng 2,6%.

Vận tải hàng hóa 6 tháng đạt 617 triệu tấn, tăng 8% và 118,5 tỷ tấn.km, tăng 3,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó vận tải trong nước đạt 600,6 triệu tấn, tăng 8,2% và 53,6 tỷ tấn.km, tăng 5,6%; vận tải ngoài nước đạt 16,4 triệu tấn, tăng 1,3% và 64,9 tỷ tấn.km, tăng 1,1%. Vận tải hàng hoá đường bộ đạt 478,9 triệu tấn, tăng 9,4% và 28,9 tỷ tấn.km, tăng 11,8% so với cùng kỳ năm trước; đường sông đạt 106 triệu tấn, tăng 4,9% và 21,9 tỷ tấn.km, tăng 4,5%; đường biển đạt 29,4 triệu tấn, tăng 1,3% và 65,8 tỷ tấn.km, tăng 0,1%; đường sắt đạt 2,6 triệu tấn, giảm 22% và 1,6 tỷ tấn.km, giảm 23,8%.

 

Vận tải hành khách và hàng hoá

 

Viễn thông

Doanh thu viễn thông 6 tháng đầu năm 2016 ước tính đạt 190,8 nghìn tỷ đồng, tăng 7,3% so với cùng kỳ năm 2015. Tổng số thuê bao điện thoại đến cuối tháng 6/2016 ước tính đạt 127,1 triệu thuê bao,giảm 2% so với cùng kỳ năm 2015, trong đó thuê bao di động đạt 121,3 triệu thuê bao, giảm 1,8%; thuê bao cố định đạt 5,8 triệu thuê bao, giảm 6,5%. Số thuê bao internet băng rộng cố định đến thời điểm trên ước tính đạt 8,5 triệu thuê bao, tăng 26,3% so với cùng kỳ năm 2015.

Khách quốc tế đến Việt Nam

Khách quốc tế đến nước ta trong tháng Sáu ước tính đạt 700,4 nghìn lượt người, giảm 7,5% so với tháng trước và tăng 29,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Khách đến bằng đường hàng không giảm 2,4% và tăng 49,9%; bằng đường bộ giảm 35,1% và giảm 40,2%; bằng đường biển giảm 43% và giảm 39,4%.

Tính chung 6 tháng đầu năm, khách quốc tế đến nước ta ước tính đạt 4706,3 nghìn lượt người, tăng 21,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến bằng đường hàng không đạt 3920,1 nghìn lượt người, tăng 25,9%; đến bằng đường bộ đạt 711,4 nghìn lượt người, tăng 7,5%; đến bằng đường biển đạt 74,8 nghìn lượt người, giảm 27,8%.

Trong 6 tháng đầu năm, khách đến nước ta từ châu Á đạt 3342,9 nghìn lượt người, tăng 25,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến từ hầu hết các thị trường chính đều tăng: Trung Quốc đạt 1204,5 nghìn lượt người, tăng 47,9%; Hàn Quốc 741,1 nghìn lượt người, tăng 34%; Nhật Bản 355,9 nghìn lượt người, tăng 12,4%; Đài Loan 242,4 nghìn lượt người, tăng 15,8%; Ma-lai-xi-a 199,8 nghìn lượt người, tăng 14,9%; Thái Lan 135,8 nghìn lượt người, tăng 35,3%; Xin-ga-po 124,7 nghìn lượt người, tăng 12,7%.

Khách đến từ châu Âu ước tính đạt 780,2 nghìn lượt người, tăng 13,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến từ Liên bang Nga đạt 204,4 nghìn lượt người, tăng 21,1%; Vương quốc Anh 128,3 nghìn lượt người, tăng 24,6%; Pháp 124 nghìn lượt người, tăng 13,8%; Đức 86,9 nghìn lượt người, tăng 17,1%; Hà Lan đạt 27,2 nghìn lượt người, tăng 22,3%; I-ta-li-a 24,4 nghìn lượt người, tăng 30,1%; Thụy Điển 23 nghìn lượt người, tăng 24,7%.

Khách đến từ châu Mỹ đạt 387,1 nghìn lượt người, tăng 12,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến từ Hoa Kỳ đạt 293 nghìn lượt người, tăng 14,5%. Khách đến từ châu Úc đạt 182,9 nghìn lượt người, tăng 4,9% so với cùng kỳ năm 2015, trong đó khách đến từ Ôx-trây-li-a đạt 165,1 nghìn lượt người, tăng 6,7%. Khách đến từ châu Phi đạt 13,2 nghìn lượt người, giảm 8,2% so với cùng kỳ năm trước.

 

Khách quốc tế đến Việt Nam

 

ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ, KIỂM SOÁT LẠM PHÁT

Hoạt động ngân hàng, bảo hiểm

Tính đến thời điểm 20/6/2016, tổng phương tiện thanh toán tăng 8,07% so với cuối năm 2015 (cùng kỳ năm trước tăng 5,09%); huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng 8,23% (cùng kỳ năm trước tăng 4,58%); tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 6,2% (cùng kỳ năm trước tăng 6,28%). Mặt bằng lãi suất huy động tương đối ổn định. Lãi suất huy động bằng đồng Việt Nam kỳ hạn dưới 6 tháng phổ biến ở mức 4,5%-5,4%/năm; kỳ hạn trên 6 tháng ở mức 5,4%-7,2%/năm.

Thị trường bảo hiểm 6 tháng đầu năm duy trì tăng trưởng tích cực. Tính đến thời điểm hiện nay, số doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động trên thị trường là 61 doanh nghiệp. Doanh thu phí bảo hiểm toàn thị trường quý II/2016 ước tính tăng 26% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ tăng 16%; doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ tăng 35%.

Xây dựng, đầu tư

Xây dựng

Giá trị sản xuất xây dựng theo giá hiện hành 6 tháng đầu năm 2016 đạt 456 nghìn tỷ đồng, bao gồm: Khu vực Nhà nước đạt 35,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 7,9%; khu vực ngoài Nhà nước đạt 394,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 86,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 25,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 5,7%. Trong tổng giá trị sản xuất, giá trị sản xuất xây dựng công trình nhà ở đạt 179,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 39,4%; công trình nhà không để ở đạt 76,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 16,9%; công trình kỹ thuật dân dụng đạt 147,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 32,3%; hoạt động xây dựng chuyên dụng đạt 51,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 11,4%.

Giá trị sản xuất xây dựng 6 tháng theo giá so sánh 2010 ước tính đạt 360,9 nghìn tỷ đồng, tăng 8,7% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Khu vực Nhà nước đạt 28,9 nghìn tỷ đồng, tăng 1,8%; khu vực ngoài Nhà nước đạt 311 nghìn tỷ đồng, tăng 10,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 21 nghìn tỷ đồng, giảm 8,4%, chủ yếu do nhà máy gang thép Formosa Hà Tĩnh đã cơ bản hoàn thành, không phát sinh hoạt động xây dựng. Trong tổng giá trị sản xuất, giá trị sản xuất xây dựng công trình nhà ở đạt141,4 nghìn tỷ đồng, tăng 9,1%; công trình nhà không để ở đạt 61 nghìn tỷ đồng, giảm 0,6%; công trình kỹ thuật dân dụng đạt 116,6 nghìn tỷ đồng, tăng 11,6%; hoạt động xây dựng chuyên dụng đạt 41,9 nghìn tỷ đồng, tăng 14,1%.

Đầu tư phát triển

Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện 6 tháng đầu năm nay theo giá hiện hành ước tính đạt 618,2 nghìn tỷ đồng, tăng 11,7% so với cùng kỳ năm trước và bằng 32,9% GDP, bao gồm: Vốn khu vực Nhà nướcđạt 229,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 37,1% tổng vốn và tăng 6,5% so với cùng kỳ năm trước; khu vực ngoài Nhà nước đạt 230,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 37,3% và tăng 14,7%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 158,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 25,6% và tăng 15,6%.

 

Tốc độ phát triển vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện

6 tháng các năm 2014 – 2016 so với cùng kỳ năm trước

(Theo giá hiện hành)

 

Đơn vị tính: %

6 tháng           năm 2014 6 tháng
năm 2015
6 tháng      năm 2016
Tổng số 109,0 109,3 111,7
Khu vực Nhà nước 110,4 107,8 106,5
Khu vực ngoài Nhà nước 110,3 110,5 114,7
Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 105,1 109,8 115,6

 

 

Trong vốn đầu tư của khu vực Nhà nước, vốn từ ngân sách Nhà nước thực hiện 6 tháng ước tính đạt 107,0 nghìn tỷ đồng, bằng 42,5% kế hoạch năm và tăng 11,9% so với cùng kỳ năm trước, gồm có:

– Vốn trung ương quản lý đạt 23,3 nghìn tỷ đồng, bằng 41,6% kế hoạch năm và tăng 13,9% so vớicùng kỳ năm trước, trong đó vốn đầu tư thực hiện của Bộ Giao thông Vận tải đạt 8682 tỷ đồng, bằng49% và tăng 29,4%; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 2274 tỷ đồng, bằng 35,6% và tăng 7,6%; Bộ Y tế 1408 tỷ đồng, bằng 46,9% và tăng 40,8%; Bộ Giáo dục và Đào tạo 1159 tỷ đồng, bằng 38,3% và tăng 54,3%; Bộ Xây dựng 419 tỷ đồng, bằng 46,5% và giảm 41,4%; Bộ Tài nguyên và Môi trường 333 tỷ đồng, bằng 39,5% và tăng 13,7%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 235 tỷ đồng, bằng 40,6% vàtăng 0,4%; Bộ Công Thương 186 tỷ đồng, bằng 44,4% và tăng 14,4%; Bộ Khoa học và Công nghệ 125 tỷ đồng, bằng 49,8% và giảm 11,5%; Bộ Thông tin và Truyền thông 49 tỷ đồng, bằng 48,7% và giảm 42,6%.

– Vốn địa phương quản lý đạt 83,7 nghìn tỷ đồng, bằng 42,8% kế hoạch năm và tăng 11,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh đạt 60 nghìn tỷ đồng, bằng 41,7% kế hoạch năm và tăng 14,7%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện đạt 19,6 nghìn tỷ đồng, bằng 44,1% vàtăng 5,3%; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã đạt 4157 tỷ đồng, bằng 55,4% và giảm 3,6%. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước của một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương như sau: Hà Nội đạt 13781 tỷ đồng, bằng 45,2% kế hoạch năm và tăng 38,3% so với cùng kỳ năm trước; thành phố Hồ Chí Minh 7783 tỷ đồng, bằng 43,9% và tăng 3,7%; Nghệ An 2562 tỷ đồng, bằng 44,3% và tăng11,9%; Bình Dương 2337 tỷ đồng, bằng 36,3% và tăng 39,7%; Bà Rịa – Vũng Tàu 2227 tỷ đồng, bằng36,3% và tăng 4,5%; Thanh Hóa 2059 tỷ đồng, bằng 49,9% và tăng 10,1%; Vĩnh Phúc 2050 tỷ đồng, bằng 38,8% và tăng 7,8%; Quảng Ninh 2026 tỷ đồng, bằng 31,7% và tăng 6,3%; Đà Nẵng 1895 tỷ đồng, bằng 43,3% và tăng 3,7%.

Đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến thời điểm 20/6/2016 thu hút 1145 dự án cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 7496,9 triệu USD, tăng 51,3% về số dự án và tăng 95,3% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2015. Đồng thời có 535 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký tăng vốn với số vốn tăng thêm đạt 3787,8 triệu USD. Như vậy, tổng vốn đăng ký của các dự án cấp mới và vốn cấp bổ sung đạt 11284,7 triệu USD, tăng 105,4% so với cùng kỳ năm trước. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 6 tháng đầu năm 2016 ước tính đạt 7,3 tỷ USD, tăng 15,1% so với cùng kỳ năm 2015.

Trong 6 tháng đầu năm nay, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo thu hút đầu tư nước ngoài lớn nhất với số vốn đăng ký đạt 8064,1 triệu USD, chiếm 71,5% tổng vốn đăng ký; hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 604,8 triệu USD, chiếm 5,3%; hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ đạt 562,3 triệu USD, chiếm 5%; các ngành còn lại đạt 2053,5 triệu USD, chiếm 18,2%.

Cả nước có 47 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép mới trong 6 tháng đầu năm, trong đó Hải Phòng có số vốn đăng ký lớn nhất với 1635,8 triệu USD, chiếm 21,8% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Hà Nội 927,6 triệu USD, chiếm 12,4%; Bình Dương 721,6 triệu USD, chiếm 9,6%; thành phố Hồ Chí Minh 524,8 triệu USD, chiếm 7%; Bắc Ninh 361 triệu USD, chiếm 4,8%; Đồng Nai 356,6 triệu USD, chiếm 4,8%; Tiền Giang 328,1 triệu USD, chiếm 4,4%.

Trong số 54 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư cấp mới tại Việt Nam 6 tháng đầu năm, Hàn Quốc là nhà đầu tư lớn nhất với 3132,4 triệu USD, chiếm 41,8% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Xin-ga-po 1017,1 triệu USD, chiếm 13,6%; Đài Loan 531,3 triệu USD, chiếm 7,1%; Nhật Bản 496,4 triệu USD, chiếm 6,6%; Đặc khu Hành chính Hồng Công (TQ) 455,4 triệu USD, chiếm 6,1%; Quần đảo Cay-men 273,5 triệu USD, chiếm 3,6%.

 

Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện theo giá hiện hành
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp phép từ 01/01- 20/6/2016

 

Thu, chi ngân sách Nhà nước

Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/6/2016 ước tính đạt 425,6 nghìn tỷ đồng, bằng 42% dự toán năm, trong đó thu nội địa đạt 343,8 nghìn tỷ đồng, bằng 43,8%; thu từ dầu thô 17,7 nghìn tỷ đồng, bằng 32,5%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu 63,0 nghìn tỷ đồng, bằng 36,6%. Thu từ dầu thô và thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu 6 tháng đầu năm đạt thấp chủ yếu do giá dầu thô, sản phẩm hóa dầu xuất khẩu giảm mạnh và tác động của việc tham gia các hiệp định thương mại tự do. Trong thu nội địa, một số khoản thu đạt khá so với dự toán: Thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước đạt 70,6 nghìn tỷ đồng, bằng 49,2%; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) 68,7 nghìn tỷ đồng, bằng 43,2%; thuế thu nhập cá nhân đạt 32,2 nghìn tỷ đồng, bằng 50,6%; thuế bảo vệ môi trường 18,2 nghìn tỷ đồng, bằng 47,4%; thu tiền sử dụng đất 34,1 nghìn tỷ đồng, bằng 68,2%.

Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/6/2016 ước tính đạt 508,5 nghìn tỷ đồng, bằng 39,9% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển đạt 74,5 nghìn tỷ đồng, bằng 29,2%; chi phát triển sự nghiệp kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể đạt 363,4 nghìn tỷ đồng, bằng 44,1%; chi trả nợ và viện trợ đạt 68 nghìn tỷ đồng, bằng 43,8%.

Xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ

Xuất khẩu hàng hóa

Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu thực hiện tháng Năm đạt 14372 triệu USD, thấp hơn 228 triệu USD so với số ước tính, trong đó điện thoại và linh kiện thấp hơn 165 triệu USD; gạo thấp hơn 84 triệu USD; cao su thấp hơn 43 triệu USD; sắn và sản phẩm của sắn thấp hơn 36 triệu USD; rau quả thấp hơn 35 triệu USD; giày dép cao hơn 98 triệu USD; điện tử, máy tính và linh kiện cao hơn 44 triệu USD.

Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Sáu ước tính đạt 14,80 tỷ USD, tăng 3,0% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 4,29 tỷ USD, tăng 2,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 10,51 tỷ USD, tăng 3,2%. Một số mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch tăng cao so với tháng trước: Gạo tăng 30,7%; dệt may tăng 17,7%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 11,6%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Sáu năm nay tăng 4,4%, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) tăng 5,5%; khu vực kinh tế trong nước tăng 1,9%. Kim ngạch một số mặt hàng tăng khá: Máy móc, thiết bị và dụng cụ phụ tùng khác tăng 14,6%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 12,2%; giày dép tăng 11,7%.

Tính chung 6 tháng đầu năm nay, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 82,2 tỷ USD, tăng 5,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 23,7 tỷ USD, tăng 3,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 58,5 tỷ USD, tăng 6,9%. Nếu loại trừ yếu tố giá (giá xuất khẩu bình quân giảm 3,85%), kim ngạch hàng hóa xuất khẩu 6 tháng đạt 85,5 tỷ USD, tăng 10,1% so với cùng kỳ năm 2015[9].

Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng gia công, lắp ráp tăng so với cùng kỳ năm trước: Điện thoại và linh kiện đạt 17,1 tỷ USD, tăng 16,7%; dệt may đạt 10,7 tỷ USD, tăng 5,1%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 7,9 tỷ USD, tăng 7,1%; giày dép đạt 6,3 tỷ USD, tăng 8,8%. Một số mặt hàng có kim ngạch giảm so với cùng kỳ năm trước: Gạo đạt 1,3 tỷ USD, giảm 2,7%; dầu thô đạt 1,1 tỷ USD, giảm 46,6% (lượng giảm 23%); sắt thép đạt 832 triệu USD, giảm 5,2%; cao su đạt 530 triệu USD, giảm 12,3%.

 

Cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu 6 tháng đầu năm nay không có nhiều thay đổi so với cùng kỳ năm trước: Nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản ước tính đạt 37,4 tỷ USD, tăng 6,3% và chiếm 45,5% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu (tăng 0,2 điểm phần trăm). Nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp đạt 33,5 tỷ USD, tăng 5,1% và chiếm 40,7% (giảm 0,3 điểm phần trăm). Nhóm hàng nông, lâm sản đạt 8,3 tỷ USD, tăng 7,8% và chiếm 10,1% (tăng 0,2 điểm phần trăm). Hàng thủy sản ước đạt 3,1 tỷ USD, tăng 4,4% và chiếm 3,7% (giảm 0,1 điểm phần trăm).

 

Về thị trường hàng hóa xuất khẩu 6 tháng đầu năm, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với 17,7 tỷ USD, tăng 12,8% so với cùng kỳ năm trước. Tiếp đến là EU đạt 16,3 tỷ USD, tăng 9,8%; Trung Quốc đạt 9,2 tỷ USD, tăng 14,3%; Hàn Quốc đạt 5,1 tỷ USD, tăng 39%. Riêng xuất khẩu sang thị trường ASEAN đạt 8,2 tỷ USD, giảm 12,6%; Nhật Bản đạt 6,6 tỷ USD, giảm 1,3%.

Nhập khẩu hàng hóa

Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu thực hiện tháng 5/2016 đạt 14549 triệu USD, thấp hơn 451 triệu USD so với số ước tính, trong đó: Điện tử máy tính và linh kiện thấp hơn 125 triệu USD; điện thoại và linh kiện thấp hơn 96 triệu USD; vải thấp hơn 75 triệu USD; chất dẻo thấp hơn 66 triệu USD; gỗ và sản phẩm gỗ thấp hơn 40 triệu USD; máy móc, thiết bị và dụng cụ, phụ tùng khác cao hơn 175 triệu USD; xăng dầu cao hơn 42 triệu USD.

 

Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Sáu ước tính đạt 14,90 tỷ USD, tăng 2,4% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 6,40 tỷ USD, tăng 1,9%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 8,50 tỷ USD, tăng 2,8%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch nhập khẩu tháng Sáu tăng 4,9%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 6,9%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 3,5%. Một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu tăng so với cùng kỳ năm trước: Điện tử, máy tính và linh kiện tăng 17,8%; sản phẩm chất dẻo tăng 21,1%; sắt thép tăng 11,7%; vải tăng 9,2%.

Tính chung 6 tháng đầu năm, kim ngạch hàng hoá nhập khẩu đạt 80,7 tỷ USD, giảm 0,5% so với cùng kỳ năm trước[10], trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 33,4 tỷ USD, tăng 1,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 47,3 tỷ USD, giảm 1,8%. Nếu loại trừ yếu tố giá (giá nhập khẩu bình quân giảm 7,8%), kim ngạch nhập khẩu 6 tháng đạt 87,5 tỷ USD, tăng 7,9% so với cùng kỳ năm 2015

[11].

Kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng giảm so với cùng kỳ năm trước: Máy móc, thiết bị và dụng cụ, phụ tùng khác đạt 13,1 tỷ USD, giảm 5,9%; xăng dầu đạt 2,4 tỷ USD, giảm 17,5% (lượng tăng 28,1%); điện thoại và linh kiện đạt 4,9 tỷ USD, giảm 7%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 878 triệu USD, giảm 19,4%. Bên cạnh đó, một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu tăng so với cùng kỳ năm trước: Điện tử, máy tính và linh kiện đạt 12,5 tỷ USD, tăng 12,1%; vải đạt 5,1 tỷ USD, tăng 3,5%; sắt thép đạt 3,8 tỷ USD, tăng 2,8%; nguyên phụ liệu dệt may, giày dép đạt 2,6 tỷ USD, tăng 2,3%; kim loại thường khác đạt 2,2 tỷ USD, tăng 24,1%; sản phẩm chất dẻo đạt 2,1 tỷ USD, tăng 17,3%.

Về cơ cấu nhóm hàng nhập khẩu 6 tháng đầu năm nay, nhóm hàng tư liệu sản xuất ước tính đạt 73,7 tỷ USD, giảm 0,6% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 91,3% tổng kim ngạch hàng hóa nhập khẩu (giảm 0,1 điểm phần trăm), trong đó nhóm máy móc, thiết bị và dụng cụ, phụ tùng đạt 33,1 tỷ USD, giảm 0,6% và chiếm 41%; nhóm hàng nguyên, nhiên, vật liệu đạt 40,6 tỷ USD, giảm 0,6% và chiếm 50,3%. Nhóm hàng tiêu dùng 6 tháng ước tính đạt 7,1 tỷ USD, tăng 0,7% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 8,7% kim ngạch hàng hóa nhập khẩu (tăng 0,1 điểm phần trăm).

Về thị trường hàng hóa nhập khẩu, 6 tháng đầu năm nay Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với 23,3 tỷ USD, giảm 2,9%[12]. Tiếp theo là Hàn Quốc đạt 14,9 tỷ USD, tăng 7,9%; ASEAN đạt 11,5 tỷ USD, giảm 3,4%; Nhật Bản đạt 6,8 tỷ USD, giảm 6,3%; EU đạt 4,6 tỷ USD, giảm 6,5%; Hoa Kỳ đạt 3,8 tỷ USD, tăng 2%.

Cán cân thương mại hàng hóa thực hiện tháng Năm nhập siêu 177 triệu USD[13]; tháng Sáu ước tính nhập siêu 100 triệu USD. Tính chung 6 tháng đầu năm xuất siêu 1,5 tỷ USD, trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 9,7 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài xuất siêu 11,2 tỷ USD. Tuy nhiên, nếu giá cả hàng hóa trên thế giới tiếp tục giảm, cùng với những khó khăn của kinh tế thế giới và sự chững lại về nhu cầu tiêu dùng ở nhiều nước sẽ khiến tăng trưởng xuất khẩu năm nay khó đạt mục tiêu 10%.

 

Hàng hóa xuất khẩu
Hàng hóa nhập khẩu

 

Xuất, nhập khẩu dịch vụ

Xuất khẩu dịch vụ 6 tháng đầu năm nay ước tính đạt 6,0 tỷ USD, tăng 10,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu dịch vụ du lịch đạt 4,1 tỷ USD, chiếm 68,1% tổng kim ngạch và tăng 14,3%. Nhập khẩu dịch vụ 6 tháng ước tính đạt 8,2 tỷ USD, tăng 4,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó nhập khẩu dịch vụ vận tải đạt 4,2 tỷ USD, chiếm 51,5% tổng kim ngạch và giảm 0,2%. Nhập siêu dịch vụ 6 tháng đầu năm là 2,2 tỷ USD.

 

Nếu loại trừ 4,4 tỷ USD chi phí vận tải và bảo hiểm hàng nhập khẩu đã được tính vào nhập khẩu dịch vụ thì cân đối thương mại hàng hóa và dịch vụ 6 tháng đầu năm 2016 xuất siêu khoảng 3,7 tỷ USD, trong đó hàng hóa xuất siêu 5,9 tỷ USD, dịch vụ nhập siêu 2,2 tỷ USD.

Chỉ số giá

Chỉ số giá tiêu dùng

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6/2016 tăng 0,46% so với tháng trước, trong đó nhóm giao thông tăng cao nhất với 2,99%, chủ yếu do giá xăng, dầu trong nước được điều chỉnh tăng vào các thời điểm 20/5/2016 và 04/6/2016 (làm chỉ số giá nhóm nhiên liệu tăng 6,46%, tác động làm CPI chung tăng khoảng 0,27%); nhà ở vật liệu xây dựng tăng 0,55% do thời tiết nắng nóng nên nhu cầu sử dụng điện tăng cao làm cho chỉ số giá điện sinh hoạt tăng 1,27% (tác động làm CPI chung tăng khoảng 0,03%), giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 0,14%.

Các nhóm hàng hóa và dịch vụ còn lại có chỉ số giá tăng thấp hơn mức tăng chung hoặc giảm: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,21% (Lương thực giảm 0,24%; thực phẩm tăng 0,36%); văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,18%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,13%; nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép; thiết bị, đồ dùng gia đình và giáo dục cùng tăng 0,06%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,05%; riêng bưu chính viễn thông giảm 0,06%.

CPI tháng 6/2016 tăng 2,35% so với tháng 12/2015, bình quân mỗi tháng tăng 0,39%. CPI bình quân 6 tháng đầu năm 2016 tăng 1,72% so với bình quân cùng kỳ năm 2015, tuy cao hơn so với mức tăng 0,86% của bình quân cùng kỳ năm trước, nhưng thấp hơn nhiều so với mức tăng CPI bình quân 6 tháng của một số năm gần đây[14]. CPI 6 tháng đầu năm tăng do một số nguyên nhân chủ yếu sau: (i) Giá dịch vụ y tế tăng theo Thông tư liên tịch số 37/2015/TTLT-BYT-BTC ngày 29/10/2015 của Bộ Y tế và Bộ Tài chính, đồng thời một số địa phương thực hiện lộ trình tăng học phí theo Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 02/10/2015 của Chính phủ[15]; (ii) Trong 6 tháng đầu năm có nhiều kỳ nghỉ kéo dài nên nhu cầu mua sắm, vui chơi, giải trí tăng cao, giá các mặt hàng lương thực, thực phẩm tăng lên. Bên cạnh đó, do nhu cầu thu mua thịt lợn xuất khẩu sang Trung Quốc tăng và hạn hán, xâm nhập mặn ở các tỉnh Tây Nguyên, Nam Trung Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long đã ảnh hưởng đến giá lương thực, thực phẩm trong nước[16].

Bên cạnh các nguyên nhân làm tăng CPI trong 6 tháng đầu năm, có một số yếu tố góp phần kiềm chế CPI: (i) Mặc dù trong quý I nhu cầu hàng hóa phục vụ Tết Nguyên đán tăng, nhưng do giá xăng dầu và giá cước vận tải giảm, nguồn cung hàng hóa dồi dào nên giá cả không biến động lớn; (ii) Giá các mặt hàng thiết yếu trên thế giới tương đối ổn định, một số mặt hàng giảm mạnh trong quý I như giá nhiên liệu, chất đốt, sắt thép. Giá xăng dầu giảm 21,07%, kéo theo chỉ số giá nhóm giao thông 6 tháng đầu năm 2016 giảm 9,37% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp mức giảm CPI chung 0,85%; (iii) Các cấp, các ngành tăng cường thực hiện tốt công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, đồng thời thực hiện các chính sách bình ổn giá một số mặt hàng thiết yếu, ổn định giá cả thị trường trong dịp Tết Nguyên đán.

Lạm phát cơ bản tháng 6/2016 tăng 0,13% so với tháng trước và tăng 1,88% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản bình quân 6 tháng đầu năm 2016 tăng 1,80% so với bình quân cùng kỳ năm 2015.

 

Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng, chỉ số giá đô la Mỹ và lạm phát cơ bản tháng 6 năm 2016

 

    Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ

Chỉ số giá vàng tháng 6/2016 giảm 0,01% so với tháng trước; tăng 9,67% so với tháng 12/2015; tăng 4,04% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 6/2016 tăng 0,09% so với tháng trước; giảm 0,80% so với tháng 12/2015 và tăng 2,52% so với cùng kỳ năm 2015.

Chỉ số giá sản xuất

Chỉ số giá sản xuất hàng nông, lâm nghiệp và thủy sản quý II năm nay tăng 2,17% so với quý trước và tăng 0,90% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá sản xuất hàng nông nghiệp tăng 2,42% và tăng 1,35%; hàng lâm nghiệp tăng 0,44% và tăng 2,83%; hàng thủy sản tăng 1,56% và giảm 0,91%. Tính chung 6 tháng đầu năm, chỉ số giá sản xuất hàng nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm 0,46% so với cùng kỳ năm trước.

Chỉ số giá sản xuất hàng công nghiệp quý II tăng 0,07% so với quý trước và giảm 1,29% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá sản xuất sản phẩm khai khoáng giảm 2,39% và giảm 10,89%; sản phẩm công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 0,37% và giảm 0,25%; điện và phân phối điện tăng 0,39% và tăng 0,99%; nước sạch và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,35% và tăng 1,93%. Tính chung 6 tháng đầu năm, chỉ số giá sản xuất hàng công nghiệp giảm 1,15% so với cùng kỳ năm trước.

Chỉ số giá nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu dùng cho sản xuất quý II năm nay tăng 0,06% so với quý trước và giảm 1,59% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu sử dụng cho sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 0,94% và giảm 4,61%; sử dụng cho sản xuất công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 0,09% và giảm 1,16%; sử dụng cho xây dựng tăng 1,61% và giảm 6,09%. Chỉ số giá nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu của một số ngành như sau: Sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 0,65% so với quý trước và giảm 0,05% so với cùng kỳ năm trước; sản phẩm khai khoáng tăng 0,93% và tăng 1,78%; sản phẩm công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 0,10% và giảm 2,24%; điện, hơi nước tăng 0,70% và tăng 6,71%; nước tự nhiên khai thác tăng 0,60% và tăng 5,02%; dịch vụ xây dựng chuyên dụng tăng 1,01% và tăng 3,52%; dịch vụ chuyên môn khoa học công nghệ tăng 0,15% và tăng 1,10%. Tính chung 6 tháng đầu năm, chỉ số giá nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu dùng cho sản xuấtgiảm 2,12% so với cùng kỳ năm trước.

Chỉ số giá cước vận tải kho bãi quý II giảm 1,15% so với quý trước và giảm 2,35% so với cùng kỳ năm trước, trong đó giá cước vận tải hành khách giảm 1,99% và giảm 1,40%; giá cước vận tải hàng hóa giảm 0,80% và giảm 4,62%; giá cước dịch vụ kho bãi và hỗ trợ vận tải giảm 0,10% và tăng 3,06%. Chỉ số giá cước vận tải các ngành đường trong quý II như sau: Giá cước ngành đường sắt giảm 12,86% so với quý trước và giảm 5,28% so với cùng kỳ năm trước; giá cước vận tải đường bộ và xe buýt giảm 2,09% và giảm 3,27%; đường thủy tăng 0,22% và giảm 5,61%; dịch vụ kho bãi và các dịch vụ hỗ trợ vận tải giảm 0,10% và tăng 3,06%. Tính chung 6 tháng đầu năm, chỉ số giá cước vận tải kho bãi giảm 2,05% so với cùng kỳ năm trước.

Chỉ số giá sản xuất dịch vụ quý II năm 2016 tăng 0,80% so với quý trước và tăng 2,12% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá sản xuất dịch vụ của một số ngành như sau: Ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 0,78% và tăng 3,23%; thông tin và truyền thông tăng 0,01% và tăng 0,18%; giáo dục và đào tạo tăng 0,31% và tăng 6,03%; y tế và trợ giúp xã hội tăng 16,26% và tăng 27,08%. Tính chung 6 tháng đầu năm, chỉ số giá sản xuất dịch vụ tăng 1,98% so với cùng kỳ năm trước.

 

Chỉ số giá sản xuất hàng nông, lâm nghiệp và thủy sản quý II năm 2016
Chỉ số giá sản xuất hàng công nghiệp quý II năm 2016
Chỉ số giá nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu dùng cho sản xuất quý II năm 2016
Chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa quý II năm 2016
Chỉ số giá cước vận tải, kho bãi quý II năm 2016
Chỉ số giá sản xuất dịch vụ quý II năm 2016

 

Chỉ số giá xuất, nhập khẩu hàng hóa

Chỉ số giá xuất khẩu hàng hoá quý II năm nay tăng 0,90% so với quý trước và giảm 2,88% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá của nhóm nông sản, thực phẩm giảm 1,72% và giảm 6,44%; nhóm nhiên liệu tăng 13,38% và giảm 26,58%; nhóm hàng hóa chế biến, chế tạo khác tăng 0,45% và tăng 1,28%. Chỉ số giá xuất khẩu của một số mặt hàng tăng/giảm so với các kỳ tương ứng như sau: Rau quả giảm 1,49% và giảm 8,50%; cà phê giảm 4,69% và giảm 19,51%; dầu thô tăng 15,61% và giảm 27,83%; cao su tăng 2,54% và giảm 18,00%; sắt, thép giảm 3,18% và giảm 24,03%. Tính chung 6 tháng đầu năm, chỉ số giá xuất khẩu hàng hoá giảm 3,85% so với cùng kỳ năm trước.

Chỉ số giá nhập khẩu hàng hoá quý II tăng 0,26% so với quý trước và giảm 6,66% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá nhập khẩu của nhóm nông sản, thực phẩm giảm 3,03% và giảm 8,03%; nhóm nhiên liệu tăng 9,27% và giảm 29,42%; nhóm hàng hóa chế biến, chế tạo khác giảm 0,12% và giảm 4,46%. Chỉ số giá nhập khẩu của một số mặt hàng tăng/giảm so với quý trước và cùng kỳ năm trước như sau: Khí đốt hóa lỏng tăng 9,32% và giảm 8,05%; xăng dầu tăng 9,26% và giảm 31,1%; cao su tăng 0,84% và giảm 9,36%; gỗ và sản phẩm từ gỗ tăng 2,48% và giảm 6,07%; máy vi tính, sản phẩm điện tử, điện thoại và linh kiện tăng 0,78% và giảm 2,77%. Tính chung 6 tháng đầu năm, chỉ số giá nhập khẩu hàng hoá giảm 7,77% so với cùng kỳ năm trước.

Tỷ giá thương mại hàng hóa[17] quý II năm nay tăng 0,64% so với quý trước và tăng 4,06% so với cùng kỳ năm trước, trong đó tỷ giá thương mại của xăng dầu các loại giảm 3,61% và giảm 1,08%; cao su tăng 1,69% và giảm 9,54%; máy vi tính, sản phẩm điện tử, điện thoại và linh kiện tăng 2,01% và tăng 5,43%; dây điện và dây cáp điện tăng 1,15% và tăng 4,02%. Tính chung 6 tháng đầu năm, tỷ giáthương mại hàng hoá tăng 4,25% so với cùng kỳ năm 2015.

 

Chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa quý II năm 2016
Tỷ giá thương mại hàng hóa quý II năm 2016

 

MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI

Dân số, lao động và việc làm

Dân số trung bình năm 2016 của cả nước ước tính 92,70 triệu người, tăng 987,8 nghìn người, tương đương tăng 1,08% so với năm 2015, bao gồm dân số thành thị 32,06 triệu người, chiếm 34,6%; dân số nông thôn 60,64 triệu người, chiếm 65,4%; dân số nam 45,75 triệu người, chiếm 49,4%; dân số nữ 46,95 triệu người, chiếm 50,6%.

Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước đến thời điểm 01/7/2016 ước tính là 54,4 triệu người, tăng 654,3 nghìn người so với cùng thời điểm năm 2015, bao gồm: Lao động nam 28,1 triệu người, chiếm 51,5%; lao động nữ 26,3 triệu người, chiếm 48,5%. Xét theo khu vực, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên khu vực thành thị là 17,5 triệu người, chiếm 32,1%; khu vực nông thôn là 36,9 triệu người, chiếm 67,9%.

Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động tại thời điểm trên ước tính 47,5 triệu người, tăng 263,6 nghìn người so với cùng thời điểm năm trước, trong đó lao động nam 25,7 triệu người, chiếm 54,1%; lao động nữ 21,8 triệu người, chiếm 45,9%. Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động khu vực thành thị là 15,9 triệu người, chiếm 33,4%; khu vực nông thôn là 31,6 triệu người, chiếm 66,6%.

Lao động 15 tuổi trở lên đang làm việc trong 6 tháng đầu năm nay ước tính 53,3 triệu người, bao gồm 22,5 triệu người đang làm việc ở khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, chiếm 42,2% tổng số; khu vực công nghiệp và xây dựng 13,0 triệu người, chiếm 24,4%; khu vực dịch vụ 17,8 triệu người, chiếm 33,4%.

Quý I/2016, tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi là 2,25%; quý II ước tính là 2,30%. Tính chung 6 tháng đầu năm nay, tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi là 2,27%, trong đó khu vực thành thị là 3,18%; khu vực nông thôn là 1,81%. Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (Từ 15-24 tuổi) 6 tháng đầu năm là 6,83%, trong đó khu vực thành thị là 11,00%; khu vực nông thôn là 5,24%. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi quý I là 1,76%; quý II ước tính 1,72%. Tính chung 6 tháng đầu năm, tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi là 1,73%, trong đó khu vực thành thị là 0,72%; khu vực nông thôn là 2,28%.

Đời sống dân cư và bảo đảm an sinh xã hội

Trong 6 tháng đầu năm, cả nước có 201,8 nghìn lượt hộ thiếu đói, tăng 9,9% so với cùng kỳ năm trước, tương ứng với 832,6 nghìn lượt nhân khẩu thiếu đói, tăng 10,1%. Thiếu đói xảy ra tập trung ở các tỉnh vùng Trung du và miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung, Tây Nguyên. Để khắc phục tình trạng thiếu đói, từ đầu năm, các cấp, các ngành, các tổ chức từ Trung ương đến địa phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói 14 nghìn tấn lương thực.

Công tác an sinh xã hội tiếp tục được quan tâm thực hiện. Theo báo cáo sơ bộ, tổng kinh phí dành cho hoạt động an sinh xã hội và giảm nghèo trong 6 tháng đầu năm 2016 là 4376 tỷ đồng, bao gồm: 2918 tỷ đồng quà thăm hỏi và hỗ trợ các đối tượng chính sách; 1050 tỷ đồng hỗ trợ các hộ nghèo và 408 tỷ đồng cứu đói, cứu trợ xã hội khác.

Giáo dục, đào tạo

Tại thời điểm đầu năm học 2015-2016, cả nước có 14513 trường mẫu giáo, tăng 334 trường so với năm học trước; 28951 trường phổ thông, tăng 29 trường, bao gồm: 15254 trường tiểu học, giảm 23 trường; 10312 trường trung học cơ sở, tăng 19 trường; 2399 trường trung học phổ thông, tăng 13 trường; 597 trường phổ thông cơ sở, tăng 12 trường và 389 trường trung học, tăng 8 trường. Số giáo viên mẫu giáo là 231,9 nghìn người, tăng 7,6%; số giáo viên phổ thông trực tiếp giảng dạy là 861,3 nghìn người, tăng 0,5%, bao gồm: 396,9 nghìn giáo viên tiểu học, tăng 1,2%; 313,5 nghìn giáo viên trung học cơ sở, tăng 0,3% và 150,9 nghìn giáo viên trung học phổ thông, giảm 0,7%. Cũng trong năm học 2015-2016, cả nước có 4,0 triệu trẻ em đi học mẫu giáo, tăng 6,0% so với năm học trước; 15,3 triệu học sinh phổ thông, tăng 1,8%, bao gồm: 7,8 triệu học sinh tiểu học, tăng 3,3%; 5,1 triệu học sinh trung học cơ sở, tăng 0,8% và 2,4 triệu học sinh trung học phổ thông, giảm 0,6%.

Tính đến cuối tháng 3/2016, cả nước có 40/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi; 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, trong đó 12 tỉnh, thành phố được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi mức độ 2.

Năm 2015, cả nước có 445 trường đại học và cao đẳng, tăng 9 trường so với năm trước, bao gồm 357 trường công lập và 88 trường ngoài công lập. Số giáo viên đại học và cao đẳng là 93,5 nghìn người, tăng 2,3% so với năm 2014, trong đó giáo viên công lập là 76,1 nghìn người, tăng 2,6% và chiếm 81,4% tổng số giáo viên. Phần lớn giáo viên đại học và cao đẳng có trình độ trên đại học (chiếm 72,2%). Số sinh viên đại học, cao đẳng năm 2015 là 2,1 triệu sinh viên, giảm 10,4% so với năm trước; số sinh viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng là 353,6 nghìn người, giảm 20%. Cũng trong năm 2015, cả nước có 110,3 nghìn học viên được đào tạo sau đại học, tăng 7,4% so với năm 2014 và 5,5 nghìn học viên được đào tạo chuyên khoa y, tăng 2,3%.

Số trường trung cấp chuyên nghiệp năm 2015 là 303 trường, giảm 10 trường so với năm học trước, bao gồm 175 trường công lập và 128 trường ngoài công lập. Số giáo viên trung cấp chuyên nghiệp là 10,2 nghìn giáo viên, giảm 6,5%; số học sinh trung cấp chuyên nghiệp là 315 nghìn học sinh, giảm 9,9%; số học sinh tốt nghiệp trung cấp chuyên nghiệp là 153,8 nghìn người, giảm 1,1%.

Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm

Trong tháng Sáu, cả nước có 4,5 nghìn trường hợp mắc bệnh tay chân miệng; 6,6 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (03 trường hợp tử vong); 35 trường hợp mắc bệnh thương hàn; 141 trường hợp mắc bệnh viêm não vi rút; 05 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu (02 trường hợp tử vong).Tính chung 6 tháng đầu năm, cả nước có hơn 16,3 nghìn trường hợp mắc bệnh tay chân miệng; 39,3 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (12 trường hợp tử vong); 135 trường hợp mắc bệnh thương hàn; 284 trường hợp mắc bệnh viêm não vi rút (04 trường hợp tử vong); 24 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu (03 trường hợp tử vong).

Tổng số người nhiễm HIV của cả nước hiện còn sống tính đến thời điểm 17/06/2016 là 228,2 nghìn người, trong đó 85,8 nghìn trường hợp đã chuyển sang giai đoạn AIDS. Số người tử vong do AIDS của cả nước tính đến thời điểm trên là 87,6 nghìn người.

Trong tháng đã xảy ra 18 vụ ngộ độc thực phẩm, làm 332 người bị ngộ độc. Tính từ 17/12/2015 đến 17/6/2016, trên địa bàn cả nước xảy ra 53 vụ ngộ độc thực phẩm nghiêm trọng, làm 2187 người bị ngộ độc, trong đó 04 trường hợp tử vong.

Hoạt động văn hóa và thể dục thể thao

Hoạt động văn hóa 6 tháng đầu năm tập trung vào chào mừng các ngày Lễ lớn, các sự kiện trọng đại của đất nước; chào mừng thành công Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-2021. Các hoạt động văn hóa được tổ chức dưới nhiều hình thức, bảo đảm thiết thực, hiệu quả và tiết kiệm; tạo không khí hồ hởi, phấn khởi trong nhân dân. Công tác quản lý lễ hội được quan tâm thực hiện nhằm phát huy tính tích cực của lễ hội dân gian và phù hợp với truyền thống văn hóa của dân tộc; tăng cường kiểm tra và kiên quyết xử lý những lễ hội có vi phạm, không đảm bảo an ninh trật tự, vệ sinh môi trường.

Trong 6 tháng đầu năm, ngành Thể dục thể thao tiếp tục duy trì và đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” với nhiệm vụ trọng tâm là tổ chức “Ngày chạy Olympic vì sức khỏe nhân dân”. Phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương tổ chức chương trình Bơi an toàn phòng chống đuối nước trẻ em giai đoạn 2016-2020 và Hội khỏe Phù Đổng lần thứ IX tại một số khu vực. Nhiều hoạt động thể dục, thể thao quần chúng được tổ chức tạo không khí vui tươi trong các dịp Lễ và Tết Nguyên đán.

Tai nạn giao thông

Trong tháng 6 (từ 16/5 đến 15/6), trên địa bàn cả nước đã xảy ra 1853 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 876 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 977 vụ va chạm giao thông, làm 774 người chết; 503 người bị thương và 1097 người bị thương nhẹ. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông giảm 0,4% (Số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên tăng 0,9%; số vụ va chạm giao thông giảm 1,6%); số người chết tăng 4,2%; số người bị thương tăng 7,5% và số người bị thương nhẹ giảm 2,7%.

Tính chung 6 tháng đầu năm 2016, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 10227 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 5039 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 5188 vụ va chạm giao thông, làm 4362 người chết; 2906 người bị thương và 6033 người bị thương nhẹ. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông 6 tháng giảm 8,5% (Số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên giảm 2,4%; số vụ va chạm giao thông giảm 13,8%); số người chết và số người bị thương cùng giảm 2,6% và số người bị thương nhẹ giảm 15,8%. Bình quân 01 ngày trong 6 tháng đầu năm, trên địa bàn cả nước xảy ra 56 vụ tai nạn giao thông, gồm 28 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 28 vụ va chạm giao thông, làm 24 người chết, 16 người bị thương và 33 người bị thương nhẹ.

Thiệt hại do thiên tai 

Trong 6 tháng đầu năm 2016, rét đậm, rét hại kéo dài cùng với mưa giông và lốc xoáy làm ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống dân cư tại nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước. Theo báo cáo sơ bộ, thiên tai[18]làm 34 người chết và mất tích; 118 người bị thương; hơn 900 ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi; 35,7 nghìn ngôi nhà bị ngập, sạt lở, tốc mái; 19,6 nghìn ha lúa, 13 nghìn ha hoa màu và 2 nghìn ha diện tích nuôi trồng thủy sản bị hư hỏng; 17 nghìn con gia súc, 12,7 nghìn gia cầm và hơn 730 tấn thủy sản các loại bị chết. Một số địa phương bị thiệt hại nhiều: Sơn La 9 người chết và mất tích, 22 người bị thương, 5,3 nghìn ngôi nhà bị sập đổ, sạt lở, tốc mái, 323 ha lúa và hoa màu bị hư hỏng; Thanh Hóa 7,4 nghìn ha lúa và hoa màu bị hư hỏng, hơn 1 nghìn con gia súc và gần 200 tấn thủy sản các loại bị chết; Yên Bái 3 người chết và mất tích, 14 người bị thương, 4,9 nghìn ngôi nhà bị sập đổ, sạt lở, tốc mái, 1,1 nghìn ha lúa, hoa màu bị hư hỏng và 1,4 nghìn con gia súc bị chết; Lào Cai 3 người chết và mất tích, gần 600 ngôi nhà bị sập đổ, sạt lở, tốc mái, hơn 1 nghìn ha lúa và hoa màu bị hư hỏng và 1,8 nghìn con gia súc bị chết. Tổng giá trị thiệt hại trong 6 tháng đầu năm ước tính 1,4 nghìn tỷ đồng, trong đó Thanh Hóa thiệt hại 323 tỷ đồng; Yên Bái 282 tỷ đồng và Lào Cai 102 tỷ đồng.

Đặc biệt, tình trạng hạn hán và xâm nhập mặn nghiêm trọng tại khu vực Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long, mà đỉnh điểm diễn ra trong tháng Ba, tháng Tư và đầu tháng Năm đã ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất và đời sống của nhân dân tại các địa phương. Cuối tháng Năm và đầu tháng Sáu, một số khu vực trên cả nước đã có mưa nên tình hình hạn hán, xâm nhập mặn bắt đầu có dấu hiệu giảm. Khu vực Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long cơ bản đã chấm dứt tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn; riêng Nam Trung Bộ vẫn còn ảnh hưởng của hạn hán nên nhiều diện tích trồng lúa phải dừng sản xuất. Tính đến cuối tháng 5/2016, có 385,8 nghìn hộ thiếu nước sinh hoạt; 249,9 nghìn ha lúa, 19 nghìn ha hoa màu, 30,5 nghìn ha cây ăn quả và 6,9 nghìn ha diện tích nuôi trồng thủy sản bị hư hỏng. Tổng giá trị thiệt hại ước tính khoảng 15,2 nghìn tỷ đồng. Để ứng phó với tác động của hạn hán, xâm nhập mặn, Chính phủ và các Bộ, ngành đã chỉ đạo và triển khai nhiều giải pháp cấp bách như: Hỗ trợ các địa phương bị ảnh hưởng với tổng kinh phí là 2,2 nghìn tỷ đồng; xuất cấp thuốc để phòng chống dịch bệnh và xử lý nước sinh hoạt cho người dân; vận chuyển và cấp nước sinh hoạt cho các hộ dân thiếu nước; hướng dẫn nông dân chuyển đổi mùa vụ, cây trồng và vật nuôi phù hợp với điều kiện thời tiết; tu bổ, nạo vét hệ thống kênh mương, công trình thủy lợi và đắp đập tạm ngăn mặn…

Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ

Trong tháng Sáu, cơ quan chức năng đã phát hiện 1599 vụ vi phạm quy định về bảo đảm vệ sinh môi trường, trong đó xử lý 484 vụ với tổng số tiền phạt hơn 11 tỷ đồng. Tính chung 6 tháng đầu năm đã phát hiện 7079 vụ vi phạm quy định về bảo vệ môi trường trên địa bàn cả nước, trong đó xử lý 2501 vụ với tổng số tiền phạt hơn 391 tỷ đồng.

Trong tháng, trên địa bàn cả nước xảy ra 274 vụ cháy, nổ làm 12 người chết và 38 người bị thương, thiệt hại ước tính 134 tỷ đồng. Tính chung 6 tháng đầu năm 2016, cả nước xảy ra 1826 vụ cháy, nổ làm 46 người chết và 191 người bị thương, thiệt hại ước tính gần 860 tỷ đồng.

Khái quát lại, kinh tế – xã hội nước ta trong 6 tháng đầu năm 2016 mặc dù gặp khó khăn nhưng có chuyển biến tích cực, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát. Dự trữ ngoại tệ khá, lãi suất cho vay có xu hướng giảm, tín dụng đối với nền kinh tế tăng trưởng tốt. Môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện; thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt khá. Các lĩnh vực lao động, việc làm, an sinh xã hội được quan tâm thực hiện và đạt kết quả nhất định. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả quan trọng đạt được, nền kinh tế nước ta đang đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức: Tốc độ tăng trưởng có dấu hiệu chững lại, lạm phát được kiểm soát nhưng vẫn tiềm ẩn nguy cơ tăng cao. Tình trạng cháy rừng và chặt phá rừng vẫn gia tăng. Đời sống nhân dân ở các vùng thiên tai, hạn hán, xâm nhập mặn, vùng bị ô nhiễm môi trường biển còn gặp nhiều khó khăn.

Để hoàn thành tốt mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội năm 2016, tạo đà cho việc thực hiện thắng lợi Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2016-2020, trong thời gian tới, các cấp, các ngành và địa phương cần tiếp tục thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp đã đề ra trong Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 07/01/2016 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2016 và các chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, trong đó tập trung vào những nội dung chủ yếu sau đây:

Một là, tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt; điều hành lãi suất, tỷ giá phù hợp với diễn biến thị trường tiền tệ trong nước và quốc tế. Tạo điều kiện thuận lợi và tập trung vốn cho các lĩnh vực ưu tiên như nông nghiệp, nông thôn, doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận nguồn vốn tín dụng thúc đẩy sản xuất, kinh doanh có hiệu quả. Tăng cường và thực hiện hiệu quả các biện pháp chống thất thu thuế, chống chuyển giá, giảm nợ đọng thuế; phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại, trốn thuế. Kiểm soát chặt chẽ các khoản chi ngân sách, triệt để tiết kiệm chi tiêu thường xuyên.

Hai là, tập trung tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, có giải pháp phục hồi tăng trưởng của ngành công nghiệp, nhất là chế biến hàng xuất khẩu. Đẩy mạnh phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ, các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, gắn với các lợi thế về phát triển nguồn nguyên liệu nông, lâm nghiệp, thuỷ sản. Tiếp tục triển khai theo kế hoạch tái cơ cấu, cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước bảo đảm đúng tiến độ, công khai, minh bạch. Đẩy mạnh tiến độ các dự án đầu tư ngành công nghiệp để nâng cao năng lực sản xuất.

Ba là, đẩy mạnh tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới, tập trung chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp để thích nghi và khắc phục những bất cập từ biến đổi khí hậu. Tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ về giống, tưới tiêu, công cụ, kỹ thuật sản xuất để phát triển sản xuất nông nghiệp bền vững, nhất là ở các vùng sản xuất hàng hoá tập trung. Tập trung thực hiện tốt kế hoạch sản xuất vụ hè thu, thu đông và vụ mùa năm 2016. Khẩn trương khôi phục hoạt động đánh bắt, nuôi trồng, tiêu thụ hải sản ở các địa phương có sự cố hải sản chết bất thường.

Bốn là, khuyến khích và đẩy mạnh xuất khẩu các nhóm hàng, mặt hàng có khả năng cạnh tranh, thị trường ổn định. Tăng cường công tác xúc tiến thương mại, tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu, nhất là các sản phẩm nông sản xuất khẩu chủ lực của nước ta. Thực hiện tốt công tác dự báo thị trường trong và ngoài nước, phổ biến kịp thời thông tin thị trường; nắm rõ các rào cản kỹ thuật và chủ động xây dựng các biện pháp để khắc phục. Chủ động triển khai thực hiện hiệu quả các cam kết hội nhập quốc tế, nhất là trong khuôn khổ Cộng đồng ASEAN, Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và các hiệp định thương mại tự do đã ký kết.

Năm là, thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Triển khai có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững. Tiếp tục thực hiện hỗ trợ người dân vùng bị thiệt hại do thiên tai, hạn hán, xâm nhập mặn và sự cố hải sản chết bất thường khắc phục hậu quả thiên tai, sớm ổn định sản xuất và đời sống./.

 

TỔNG CỤC THỐNG KÊ

[1] Tốc độ tăng GDP 6 tháng các năm 2012-2014 lần lượt là 4,93%; 4,90%; 5,22%.

[2] Tốc độ tăng giá trị tăng thêm ngành xây dựng 6 tháng của một số năm: Năm 2011 tăng 0,11%; năm 2012 tăng 2,41%; năm 2013 tăng 5,06%; năm 2014 tăng 6,11% và năm 2015 tăng 7,66%.

[3] Tốc độ tăng giá trị tăng thêm ngành dịch vụ 6 tháng của một số năm: Năm 2012 tăng 6,11%; năm 2013 tăng 6,13%; năm 2014 tăng 5,82% và năm 2015 tăng 5,86%.

[4]  Mức tăng ngành kinh doanh bất động sản 6 tháng của một số năm: Năm 2011 tăng 0,3%; năm 2012 giảm 0,75%; năm 2013 tăng 0,76%; năm 2014 tăng 1,87% và năm 2015 tăng 2,35%.

[5] Sản lượng thủy sản khai thác của Hà Tĩnh 6 tháng đầu năm giảm 16 nghìn tấn (giảm 6%); Quảng Bình giảm 23,6 nghìn tấn (giảm 8,7%); Quảng Trị giảm 16 nghìn tấn (giảm 14,3%), Thừa Thiên – Huế giảm 13,3 nghìn tấn (giảm 30%).

[6] Chỉ số sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm 2015 tăng 9,7% so với cùng kỳ năm trước (Quý I tăng 9,3%; quý II tăng 10,2%), trong đó: Ngành khai khoáng tăng 8,4%; ngành chế biến, chế tạo tăng 10%; sản xuất và phân phối điện tăng 11,4%; cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,9%.

[7] Nguồn: Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

[8] So với cùng kỳ năm trước, số doanh nghiệp thành lập mới 6 tháng đầu năm 2015 tăng 21,7%; số vốn đăng ký tăng 22,3%.

[9 ] Loại trừ yếu tố giá 6 tháng đầu năm 2015 tăng 13,3% so với cùng kỳ.

[10] Kim ngạch nhập khẩu 6 tháng đầu năm 2015 tăng 17,1% so với cùng kỳ.

[11] Loại trừ yếu tố giá 6 tháng đầu năm 2015 tăng 21,5% so với cùng kỳ.

[12] Nhập siêu từ thị trường Trung Quốc 6 tháng đầu năm ước tính 14,1 tỷ USD, giảm 11,5% so với cùng kỳ 2015.

[13] Ước tính nhập siêu 400 triệu USD.

[14]CPI bình quân 6 tháng so với cùng kỳ của một số năm như sau: Năm 2008 tăng 20,34%; năm 2009 tăng 10,27%; năm 2010 tăng 8,75%; năm 2011 tăng 16,03%; năm 2012 tăng 12,20%; năm 2013 tăng 6,73%; năm 2014 tăng 4,77%.

[15]Giá các mặt hàng dịch vụ y tế tăng 23,12% tác động làm CPI 6 tháng đầu năm tăng 0,86%; giá dịch vụ giáo dục tăng 4,47% làm CPI 6 tháng tăng 0,22%.

[16]Bình quân 6 tháng đầu năm, chỉ số giá nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 2,03% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,71% vào mức tăng CPI chung.

[17] Chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa so với chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa.

[18] Chưa kể thiệt hại do tình trạng hạn hán và xâm nhập mặn nghiêm trọng tại khu vực Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long.